1. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động khi mang thai (Điều 156 BLLĐ 2012 và Điều 138 BLLĐ 2019)
=> BLLĐ 2019 quy định thêm về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian này hai bên có thể thỏa thuận dựa trên thời gian do cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định.
2. Quyền được ưu tiên ký hợp đồng lao động mới khi hết hạn hợp đồng trong thời kỳ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi (Đây là quy định mới tại Khoản 3 Điều 137 BLLĐ 2019 so với Điều 155 BLLĐ 2012)
3. Tăng thời gian và mở rộng đối tượng lao động nữ được chuyển sang làm công việc nhẹ hơn hoặc giảm bớt 01 giờ lao động (Khoản 2 Điều 137 BLLĐ 2019 so với Khoản 2 Điều 155 BLLĐ 2012)
=> Ở Bộ luật lao động hiện hành, quy định chỉ cho phép lao động nữ được chuyển sang làm công việc nhẹ hơn hoặc giảm bớt thời gian lao động trong thời gian từ tháng thứ 7 đến khi sinh con, sang đến Bộ luật mới, thời gian này kéo dài từ khi mang thai cho đến khi con đủ 12 tháng tuổi.
Ngoài ra, tại BLLĐ 2012 chỉ quy định lao động nữ làm "công việc nặng nhọc" mới được hưởng quyền như trên, tuy nhiên sắp tới phạm vi công việc này sẽ được mở rộng thành: "lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai"
4. Lao động nữ mang thai hộ và người lao động là người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. (Đây là quy định mới tại Khoản 5 Điều 139 BLLĐ 2019 so với Điều 157 BLLĐ 2012)
=> Đây là hai đối tượng mới được đưa vào những chính sách cho người lao động nữ sau khi đã có quy định hợp pháp việc mang thai hộ theo Luật hôn nhân và gia đình 2014, theo đó kể cả khi không phải là người trực tiếp mang thai nhưng nhờ người khác mang thai hộ thì vẫn sẽ được hưởng chế độ khi con được sinh ra.
5. Không bị thay đổi quyền, lợi ích khi quay trở lại làm việc sau thai sản (Đây là quy định mới tại điều 140 BLLĐ 2019 so với Điều 158 BLLĐ 2012)
=> Hiện nay quy định pháp luật đảm bảo việc làm cho lao động nữ nghỉ thai sản chỉ nhắc đến việc người lao động được bảo đảm việc làm cũ khi quay trở lại mà không nhắc đến việc lương thưởng, lợi ích có thay đổi hay không, đây là một bổ sung hết sức quan trọng.
6. Quyền được cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ và yêu cầu của công việc ảnh hưởng xấu tới sức khỏe (Đây là quy định mới tại Khoản 2 Điều 142 BLLĐ 2019 so với Điều 160 BLLĐ 2012)
=> Danh mục nghề, công việc ảnh hưởng xấu đến sức khỏe sinh sản, khả năng sinh con của lao động nữ sẽ được Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành, khi có ý định ký kết hợp đồng làm việc trong những lĩnh vực này, người lao động nữ được cung cấp đầy đủ thông tin về công việc để tham khảo.
Những đặc quyền khác của lao động nữ về thời giờ làm thêm, không bị xử lý kỷ luật, nghỉ khám thai, ... vẫn được giữ nguyên.