Theo hướng dẫn tại Công văn số 121/2003/KHXX thì phần dân sự trong vụ án hình sự được hiểu là những quan hệ về đòi tài sản; đòi bồi thường giá trị tài sản do bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất hoặc bị hủy hoại; yêu cầu sửa chữa tài sản bị hư hỏng; đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Sở dĩ việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự chỉ được quy định mang tính nguyên tắc chung bởi lẽ về pháp luật nội dung áp dụng đã được quy định cụ thể tại chương XXI - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự. Do đó, không cần thiết phải quy định trong Bộ luật Hình sự các điều luật cụ thể về nội dung của vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Về thủ tục tố tụng phải tuân theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đồng thời, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thể áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết trong trường hợp Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của các đương sự khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Tòa án không thể đồng thời áp dụng cả thủ tục tố tụng hình sự và thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết một vụ án mà chỉ có thể áp dụng thủ tục tố tụng hình sự trên cơ sở kết hợp với những nguyên tắc và thủ tục của tố tụng dân sự để giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án đó. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ tuân theo thủ tục tố tụng hình sự trên cơ sở kết hợp với các nguyên tắc của tố tụng dân sự từ việc yêu cầu bồi thường, thỏa thuận đến việc từ chối nhận bồi thường.
Do tính đặc thù riêng nên vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được giải quyết khi khởi tố vụ án hình sự mà không cần có đơn khởi kiện của đương sự. Khi vụ án hình sự có vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm bị khởi tố thì việc dân sự đó đương nhiên được xem xét và giải quyết mà không cần phải khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa. Theo thủ tục tố tụng dân sự thì vụ án dân sự chỉ được đặt ra và xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định tại các Điều 161, Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự, theo đó, cá nhân, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và Tòa án chỉ giải quyết khi có đơn khởi kiện dân sự. Trong vụ án hình sự, khi đã khởi tố vụ án mà có vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét giải quyết ngay mà không cần phải có thủ tục khởi kiện dân sự khác nữa. Như vậy, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ được xem xét và giải quyết ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự mà không cần phải có bất kể thủ tục nào khác nữa, kể cả thủ tục phải có yêu cầu khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, chủ thể tham gia vào việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự theo thủ tục tố tụng hình sự giữa một bên là người phải bồi thường dưới tư cách tố tụng là bị can, bị cáo hoặc bị đơn dân sự (có thể người đó là cha mẹ bị can, bị cáo hoặc người giám hộ của bị can bị cáo hoặc cơ quan tổ chức có trách nhiệm liên đới) với một bên là người được bồi thường với tư cách tố tụng là người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Còn chủ thể tham gia vào việc giải quyết dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự thì giữa một bên là người khởi kiện với tư cách là nguyên đơn dân sự với một bên là người bị khởi kiện với tư cách là bị đơn dân sự. Qua đó, có thể thấy trong thủ tục tố tụng hình sự thì tư cách tố tụng của bị đơn có thể đồng thời là bị can, bị cáo, còn trong tố tụng dân sự tư cách của bị đơn là người bị kiện về dân sự.
Việc đưa ra yêu cầu bồi thường được quy định tại các Điều 51,52,53,54 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì đây là quyền chứ không phải là nghĩa vụ, còn trong tố tụng dân sự thì việc đưa ra yêu cầu là điều kiện bắt buộc để làm phát sinh vấn đề dân sự.
Việc hòa giải thỏa thuận giữa người phạm tội với người bị thiệt hại: Trong pháp luật tố tụng hình sự không quy định thủ tục hòa giải thỏa thuận giữa các bên khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, tuy nhiên vấn đề này trong thực tiễn vẫn xảy ra và được cơ quan tiến hành tố tụng tôn trọng ở mọi giai đoạn tố tụng, còn trong pháp luật tố tụng dân sự thì vấn đề này là thủ tục bắt buộc và được quy định tại Điều 10 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Qua phân tích ở trên cho thấy việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự sẽ tuân theo thủ tục tố tụng hình sự, tuy nhiên, trong pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định một cách đầy đủ, cụ thể về trình tự thủ tục giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự nên đã gây khó khăn cho những người áp dụng pháp luật trong thực tiễn khi giải quyết vụ án. Đặc biệt là, trường hợp cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự do cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm hủy án phần dân sự, trả hồ sơ để xét xử lại phần dân sự trong vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm (phần trách nhiệm hình sự có hiệu lực pháp luật). Nhiều trường hợp phổ biến xảy ra là việc hủy án do cấp sơ thẩm không giải quyết vấn đề dân sự trong cùng vụ án hình sự (ví dụ: Xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc vi phạm quy định giao thông đường bộ) mà tách yêu cầu này thành vụ án dân sự khác khi đương sự có đơn yêu cầu. Một số vướng mắc sau trong quá trình thụ lý lại vụ án để giải quyết phần dân sự trong vụ án hình sự:
- Thứ nhất, về thủ tục thụ lý vụ án:
Một là, xác định quan hệ tranh chấp và tư cách đượng sự trong vụ án
- Quan điểm thứ nhất xác định đây vẫn là vụ án hình sự nên xác định tên gọi vụ án theo tội danh, điều luật của Bộ luật Hình sự. Ví dụ: Cố ý gây thương tích hoặc vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ… Điều này dẫn đến việc xác định tư cách đương sự vụ án theo vụ án hình sự đã xét xử trước đây do bị hủy phần dân sự. Việc xác định như trên là không chính xác vì phần hình sự đã có hiệu lực pháp luật nên không xét lại nữa nên quan hệ tranh chấp cần xác định là bồi thường ngoài hợp đồng. Theo đó, Tòa án có thẩm quyền áp dụng các quy định tại Chương XXI - Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật Dân sự để giải quyết. Về tư cách bị cáo cũng không còn vì theo điểm b khoản 3 mục III, Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 hướng dẫn: “…nếu bị đơn là người phạm tội thì họ đã bị kết án cho nên không thể buộc họ đứng trước vành móng ngựa một lần nữa (nơi chỉ dành cho bị cáo) và trong một số trường hợp bị đơn không phải là người phạm tội; do đó, để bảo đảm sự thống nhất trong các trường hợp và sự bình đẳng giữa các đương sự, mặc dù mở phiên toà xét xử vụ án hình sự, nhưng được tiến hành như phiên toà dân sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”. Tùy theo vụ án mà tư cách này (người đã bị kết án) có thể xác định là bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Quan điểm thứ hai xác định quan hệ tranh chấp là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tùy từng trường hợp cụ thể mà xác định quan hệ tranh chấp theo quy định pháp luật cụ thể (ví dụ: Trường hợp phần dân sự trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì xác định là bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra). Do vậy, tư cách của người tham gia tố tụng được xác định theo quan hệ tranh chấp mới phù hợp.
Hai là, xác định thời hạn giải quyết vụ án
Do không thống nhất về quan hệ tranh chấp cũng như áp dụng luật hình thức (tố tụng) để giải quyết nên dẫn đến việc hiểu và xác định thời hạn giải quyết vụ án không giống nhau. Thời hạn này tính theo Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự hay Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo quan điểm của tác giả thì cần áp dụng thời hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án bởi các lý do sau: Vì phần trách nhiệm hình sự đã được giải quyết và có hiệu lực pháp luật, không giải quyết nữa nên quan hệ tranh chấp và tư cách đương sự cần xác định theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự như đã phân tích nêu trên, do đó, việc áp dụng thời hạn giải quyết vụ án phải căn cứ vào quan hệ tranh chấp và pháp luật áp dụng. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án cần phải thu thập thêm chứng cứ, cho đương sự một khoảng thời gian hợp lý để có ý kiến cũng như cung cấp chứng cứ bổ sung… nên thời hạn giải quyết được xác định theo Bộ luật Tố tụng dân sự mới đảm bảo được thời gian thu thập, đánh giá chứng cứ, từ đó mới có đủ cơ sở để giải quyết vụ án một cách khách quan và toàn diện. Đồng thời, cách xác định này cũng phù hợp với nội dung hướng dẫn tại điểm a khoản 3 mục III Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003: “…Tòa án có quyền tiến hành những việc cần thiết theo quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự để xác minh, thu thập chứng cứ và quyết định việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
- Thứ hai, về phạm vi giải quyết:
- Thứ ba, về vấn đề hòa giải:
- Thứ tư, về thủ tục phiên tòa:
Ngoài các vấn đề đã phân tích và đánh giá, có thể xác định việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nói chung và Bộ luật Tố tụng hình sự nói riêng. Tuy nhiên, quy định pháp luật áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự là chưa đầy đủ. Đồng thời, Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1992 và năm 2003 đã hết hiệu lực thi hành. Hơn nữa, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 đã được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, cho nên cần có sự hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để việc áp dụng quy định này được thống nhất.